Những tài liệu cổ nhất trong y học cổ truyền cho rằng, bạch chỉ là cây thuốc quý có tác dụng chống viêm giảm đau, tán phong trừ thấp, thông khiếu, tiêu thũng trừ mủ,…
- Bệnh gan nhiễm mỡ dưới góc nhìn Y học cổ truyền
- Bổ thận, cường dương nhờ bài thuốc y học cổ truyền từ quả mâm xôi
- Những bài thuốc y học cổ truyền chữa bệnh thoái hóa đốt sống cổ hiệu quả
Chống viêm giảm đau nhờ cây thuốc quý trong y học cổ truyền
Bạch chỉ là cây thuốc như thế nào?
Bạch chỉ còn có tên gọi khác là chỉ hương, đỗ nhược, ly hiêu, cửu lý trúc căn, hòe hoàn, lan hòe, linh chỉ, phương hương,… Đây là cây được trồng để làm thuốc, thích hợp ở miền núi cao, lạnh như Tam Đảo, Sa Pa hoặc nơi có khí hậu tương tự.
Đây là loài cây sống lâu năm, cao khoảng 1m trở lên; thân hình trụ rỗng, không phân nhánh; lá to có cuống, phần dưới phát triển thành bẹ ôm lấy thân, phiến lá xẻ 2-3 lần lông chim, mép khía răng, có lông ở gân lá mặt trên. Hoa nhỏ màu trắng, cụm hoa tán kép mọc ở ngọn. Quả bế, dẹt.
Theo các Y sĩ Y học cổ truyền, bộ phận của cây bạch chỉ dùng để làm thuốc là rễ củ. Cây thường được thu hoạch vào mùa thu đông khi một số lá gốc úa vàng, củ to. Trong quá trình thu hoạch, người thu hoạch sẽ dùng dao chặt toàn cây để lại 10cm thân, đồng thời tránh làm sây sát vỏ và gãy rễ, rũ sạch đất, rửa sạch, cắt bỏ rễ con, phân riêng củ có kích thước như nhau, phơi hay sấy nhẹ cho khô.
Bạch chỉ là thuốc hình chùy, dài 10 – 20 cm, phần trên to, phần dưới thuôn nhỏ dần, có mùi thơm hắc, vị cay, hơi đắng. Mặt ngoài củ có màu vàng nâu nhạt, có nhiều vết nhăn dọc. Mặt cắt ngang có màu trắng hay trắng ngà. Thể chất cứng, vết bẻ lởm chởm, nhiều bột.
Theo nghiên cứu dược lý, bạch có tác dụng chống viêm, kháng khuẩn, giảm đau,… Theo y học cổ truyền, bạch chỉ có tác dụng tán phong trừ thấp, giảm đau, thông khiếu, tiêu thũng trừ mủ,…nên thường được dùng làm thuốc giảm đau, chữa cảm mạo, viêm mũi, viêm xoang, mụn nhọt sưng đau, viêm tuyến vú, thông kinh nguyệt,…
Bài thuốc y học cổ truyền điều trị bệnh từ bạch chỉ
Trong y học cổ truyền, tài liệu giảng dạy Trung cấp Y học cổ truyền Sài Gòn cũng đề cập đến những bài thuốc điều trị bệnh có sự tham gia của bạch chỉ. Cụ thể:
Chữa cảm lạnh: Bạch chỉ 3g, cam thảo 3g, đậu khấu 3g, thông bạch 3g, sinh khương 5g, đại táo 6g. Sắc uống cho ra mồ hôi là được.
Vị thuốc bạch chỉ
Chữa mụn nhọt đau nhức, mưng mủ nhưng chưa vỡ: Bạch chỉ 3g, thanh bì 3g, xương truật 3g, tạo giác thích 2g, đương quy 4g, ý dĩ 6g. Sắc uống ngày 1 thang, dùng trong 3 ngày.
Chữa viêm mũi sinh đau đầu: Bạch chỉ 9g, thương nhĩ tử 9g, tân di 9g, bạc hà 4,5g. Đem những dược liệu này tán mịn, mỗi lần uống 3g, ngày 2 – 3 lần. Dùng 3 – 5 ngày.
Chữa đau bụng kinh: Bạch chỉ 8g; quế chi, can khương, bán hạ chế, uất kim, mỗi vị 8g; ngưu tất, đan sâm, mỗi vị 12g. Sắc uống trong ngày. Dùng 5 ngày trước kỳ kinh.
Chữa bế kinh do ứ trệ máu: Bạch chỉ 8g; xuyên khung 10g; quế chi, tía tô, uất kim, nga truật, mỗi vị 8g; đan sâm, ngưu tất, mỗi vị 12g;. Sắc uống ngày một thang. Dùng 5 – 7 ngày trước kỳ kinh.
Trị hôi miệng: Bạch chỉ 30g, xuyên khung 30g. Theo Dược liệu Việt Nam, người bệnh đem tán bột, trộn mật làm viên to bằng hạt ngô, ngày ngậm 2 – 3 viên sẽ có tác dụng trong điều trị hôi miệng.
Bạch chỉ hiện đang được sử dụng phổ biến trong các bài thuốc y học cổ truyền, đặc biệt với mong muốn chống viêm giảm đau. Tuy nhiên cần nhớ rằng, những người có âm hư hỏa uất, nhiệt thịnh không nên dùng. Bên cạnh đó, để có thể đạt được hiệu quả cao và an toàn nhất, người bệnh nên tham khảo ý kiến từ các bác sĩ, y sĩ y học cổ truyền có trình độ chuyên môn để được tư vấn cụ thể.