Trần bì và tần bì là hai vị thuốc xuất hiện phổ biến trong các phương thuốc cổ truyền khiến nhiều người lầm tưởng chúng là một, nhưng thực tế chúng là hai vị Đông dược hoàn toàn khác nhau.
- Y học cổ truyền chỉ ra công dụng của vỏ bưởi
- Mách bạn bài thuốc Y học cổ truyền trị loãng xương
- Bổ thận, cường dương nhờ bài thuốc y học cổ truyền từ quả mâm xôi
Y sĩ Y học cổ truyền phân biệt vị thuốc trần bì và tần bì
Trần bì họ cam (Rutaceae), tần bì họ nhài (Oleaceae). Trần bì là vỏ quả, trong khi tần bì là vỏ cành, vỏ cây. Trần bì thuộc nhóm hành khí, chủ yếu dùng trị trướng khí, khí trệ còn tần bì thuộc nhóm thanh nhiệt táo thấp, chủ yếu dùng trị lỵ và táo kết đại tràng. Có thể thấy xét về công dụng thì chúng là khác nhau, nhưng đều có thể dùng trị viêm phế quản. Do tên gọi có phần giống nhau nên khiến nhiều người lầm tưởng hai vị là một. Tuy nhiên trên thực tế, chúng là hai vị Đông dược hoàn toàn khác nhau.
Tìm hiểu vị thuốc trần bì
Trần bì có tên khoa học là Pericarpium Citri reticulatae perenne, là vỏ quả chín đã phơi khô hoặc sấy khô và để lâu năm của cây quýt (Citrus reticulata Blanco), họ cam (Rutaceae). Theo Y học cổ truyền, trần bì có vị hơi đắng, mùi thơm đặc trưng, có tác dụng kích thích nhẹ vị tràng, làm tăng sự bài trừ các khí tích trong ruột, tăng sự phân tiết dịch tiêu hoá, chống loét đường ruột, hạ huyết áp, chống viêm. Khi dùng, bạn lưu ý rửa sạch thật nhanh để tránh vị thuốc bị làm nát do nước. Sau đó để ráo, bóc bỏ các màng trắng ở bên trong, thái chỉ, sao vàng hoặc sao đen. Trần bì chứa chủ yếu tinh dầu (Oleum Mandarin), các flavonoid, vitamin A, B có tác dụng chống ho, trừ đờm trên động vật thí nghiệm. Nước sắc trần bì còn có tác dụng giãn động mạch vành tim, tăng sức co bóp của tim ếch cô lập.
Trần bì trị một số chứng bệnh:
Trị ợ hơi, ngực bụng đầy trướng, đau, buồn nôn: Trần bì kết hợp với bạc hà, tô diệp, hoàng liên, sinh khương, mộc hương mỗi vị từ 10 – 12g, sắc uống.
Trị đau bụng do lạnh: Trần bì kết hợp với thương truật, can khương, tô diệp, hậu phác, nam mộc hương mỗi vị 10 – 12g, sắc uống.
Trị ho, đờm nhiều, dính, bứt rứt trong lồng ngực, tiêu hóa kém: Trần bì, bạch linh, bán hạ (chế), cam thảo mỗi vị 10g, sắc uống.
Trị các bệnh huyết ứ, khí trệ, gây đau đớn cơ nhục, đau bụng kinh, bế kinh, đau dạ dầy, ruột…: trần bì phối hợp với hương phụ, nga truật, ích mẫu,…
Trị viêm tuyến vú cấp tính: trần bì 30g, cam thảo 6g, sắc uống
Tần bì là vị thuốc như thế nào?
Tần bì có tên khoa học là Fraxinus rhychophylla Hance., là vỏ thân hoặc vỏ cành của cây tần bì, hoặc đồng danh (Fraxinus chinensis Roxb.), họ nhài (Oleaceae). Tần bì xuất xứ ở Trung Quốc và nhập vào Việt Nam.
Tần bì
Theo nghiên cứu y học hiện đại, tần bì chứa các thành phần coumarin, saponin, tanin… Tần bì thường được thu hoạch vào mùa xuân, người ta sẽ bóc lấy vỏ thân, hoặc vỏ cành cây tần bì đem phơi khô hoặc sấy khô để làm thuốc. Nước sắc tần bì có tác dụng ức chế lỵ trực khuẩn, song cầu khuẩn viêm phổi, trực khuẩn phó thương hàn, chống viêm, chỉ ho, trừ đờm, giảm đau.
Theo Y sĩ Y học cổ truyền, tần bì vị đắng, chát, tính hàn, có nhiều công dụng trong việc điều trị các bệnh như:
Trị đại tràng táo kết: Tần bì, đại hoàng, mỗi vị 6g, sắc uống ngày 1 thang.
Trị ngứa, sần da (ngưu bì điến dẫn đến da bị ngứa và dầy lên như da trâu): Tần bì 30g, nấu nước rửa hàng ngày.
Trị lỵ: Tần bì, hoàng bá mỗi vị 6g, sắc uống ngày một thang.
Trị viêm phế quản: Sử dụng viên nén tần bì, mỗi viên chứa 0,3g cao chế từ tần bì; mỗi lần uống 2 viên, ngày 2 lần.
Như vậy, bên cạnh điểm chung về tác dụng điều trị bệnh viêm phế quản thì trần bì và tần bì là hai vị thuốc hoàn toàn khác nhau với dược lý, công dụng,… khác nhau. Để hiểu hơn về vị thuốc này, bạn có thể đăng ký học Trung cấp Y học cổ truyền Sài Gòn hoặc tham khảo ý kiến từ bác sĩ, y sĩ y học cổ truyền hay những người có chuyên môn để sử dụng chúng an toàn và hiệu quả nhất.