Vị thuốc phòng phong, còn được gọi là đông phòng phong, là một loại thuốc được sử dụng trong đông y để điều trị các triệu chứng do gió gây ra. Tuy nhiên, phòng phong không chỉ đề cập đến một loại thuốc duy nhất, mà có nhiều loại thuốc được cung cấp bởi nhiều cây khác nhau.
Một số cây chính gồm xuyên phòng phong (Radix Ligustici brachylobi), phòng phong hay thiên phòng phong (Radix Ledebouriellae seseloidis) và vân phòng phong (Radix Seseli). Ngoài ra, còn có các cây khác như Carum carvi, tiền hổ hoa trắng, Siler divaricatum, Pimpinella candolleana và nhiều loại cây khác thuộc họ Hoa tán. Cùng Trường Cao đẳng Y dược Pasteur tìm hiểu về công dụng của phòng phong qua bài viết sau đây nhé!
Phòng phong – Vị thuốc y học cổ truyền nhiều công dụng
Mô tả cây
Xuyên phòng phong là loài cây sống lâu năm, cao tới 1m. Lá cây có cuống dài 10-15cm, phần cuống phía dưới bao quanh thân cây. Lá được xẻ lông chim 2-3 lần. Cụm hoa hình tán kép chứa 25-30 tán nhỏ, có chiều dài không đều từ 5-8cm, mỗi tán nhỏ mang 25-30 hoa màu trắng. Quả của cây có hình dáng kép, không có lông, hình trứng dẹt, trên lưng có một sợi chạy dọc, giữa sợi chạy có 3 ống chứa tinh dầu, mặt tiếp xúc có 5-6 ống chứa tinh dầu. Xuyên phòng phong phát triển thành cánh.
Phòng phong hay thiên phòng phong (Ledebouriella seseloides) cũng là một loài cây sống lâu năm, cao 0.3-1m. Lá mọc một cách rời rạc, có cuống dài, và cũng phát triển thành bẹ ốm gần thân cây. Phiến lá xẻ lông chim, giống lá ngải cứu. Cụm hoa hình tán kép, mỗi tán kép chứa 5-7 tán nhỏ, cuống tán nhỏ không đều nhau. Quả của cây cũng có hình dáng kép, hai quả dính nhau trông giống chuông. Trên lưng quả có một sợi chạy dọc, giữa sợi chạy có một ống chứa tinh dầu, mặt tiếp xúc giữa hai phần quả cũng có một ống chứa tinh dầu.
Cây vân phòng phong hay phòng phong lá tre-trúc diệp phòng phong (Seseli delavayi) là cây sống lâu năm, cao từ 0.3-0.5m. Lá cây xẻ lông chim 2-3 lần, có cuống dài, và thùy lá giống lá tre với chiều dài 7-10cm và chiều rộng 2-4cm, mép lá nguyên. Cụm hoa hình tán kép bao gồm 5-8 tán nhỏ, mỗi tán nhỏ có 10-20 hoa nhỏ với cuống dài ngắn không đều. Hoa có màu trắng. Quả của cây có hình dáng dài hình trứng.
Cây phòng phong
Phân bố, thu hái và chế biến
Phòng phong thường được nhập khẩu từ Trung Quốc. Xuyên phòng phong chủ yếu được sản xuất ở Tứ Xuyên, Quý Châu và Vân Nam, phòng phong chủ yếu được sản xuất ở Hắc Long Giang, Liêu Ninh, Sơn Đông và Nội Mông. Vân phòng phong chủ yếu được sản xuất ở Quý Châu, Tứ Xuyên và Vân Nam. Rễ của cây được thu hái vào mùa xuân và thu, sau đó cắt bỏ phần trên và phơi hoặc sấy khô.
Về thành phần hóa học, trong phòng phong (Ledebouriella seseloides) đã được phát hiện chứa các chất manit, chất phenol, glucozid đắng và các chất đường. Một loại phòng phong khác (Siler divaricatum) chứa khoảng 0,05% tinh dầu. Tuy nhiên, chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu về thành phần hóa học của các loại phòng phong khác.
Tác dụng dược lý
Vào năm 1942, Trung Xuyên Công Hải trong báo cáo của ông đã sử dụng chất chiết từ cây phòng phong để gây sốt cho thỏ và đã thấy có tác dụng hạ nhiệt.
Vào năm 1956, trong một bài báo của Tôn Thế Tích được đăng trên tạp chí y học Trung Quốc, ông đã báo cáo về việc sử dụng vacxin thương hàn tiêm tĩnh mạch vào thỏ để gây sốt, sau đó so sánh tác dụng giảm sốt của một số vị thuốc đông y. Ông đã xác định rằng cây phòng phong (Siler divaricatum) được Ư Đạt Vọng xác định, khi chế thành thuốc sắc 20% (trọng lượng trên thể tích) và tiêm vào dạ dày với liều lượng 10mg cho 1kg trọng lượng thể trọng, đã có tác dụng giảm sốt đáng kể sau nửa giờ.
Tuy tác dụng giảm sốt của thuốc sắc có thể kéo dài trong vòng 2 giờ, nhưng đối lập với thuốc ngâm, sau 2 giờ, nhiệt độ lại tăng cao hơn so với nhóm thỏ không dùng thuốc. Tôn Thế Tích cũng cho rằng tác dụng giảm sốt của cây phòng phong không được coi là cao.
Công dụng và liều dùng
Trong đông y, cây phòng phong được sử dụng như một loại thuốc.
Theo quan điểm đông y, phòng phong có vị cay ngọt, tính ôn, không độc và tác động vào 5 kinh bàng quang, can, phế, tỳ và vị. Nó có tác dụng giải phóng tán phong, khử thấp, và được sử dụng để điều trị các triệu chứng cảm mạo như ra mồ hôi, đau đầu chóng mặt, mờ mắt, cũng như điều trị phong, đau các khớp xương. Liều dùng hàng ngày là từ 4 đến 10g dưới dạng thuốc sắc.
Vị thuốc phòng phong
Một số đơn thuốc sử dụng phòng phong trong đông y
Chữa đau đầu một bên (thiên đầu thống): Pha trộn phòng phong và bạch chỉ với số lượng bằng nhau, nhỏ nhỏ và trộn chung với viên mật từ quả táo. Mỗi lần ngậm một viên và dùng nước chè để uống thuốc.
Chữa triệu chứng ra mồ hôi trộm khi ngủ: Pha trộn 80g phòng phong, 40g xuyên khung và 20g nhân sâm (có thể thay thế bằng đảng sâm). Tán nhỏ các thành phần này và trộn đều. Uống 10-12g của hỗn dịch này trước khi đi ngủ.
Bài thuốc sơ phong giải biểu, làm mát và hạ nhiệt: Tán nhỏ 20g phòng phong, 20g kinh giới, 20g liên kiều, 20g ma hoàng, 20g bạc hà, 20g xuyên khung, 20g đương qui, 20g bạch thược (đã rang), 20g bạch truật, 20g hắc chi tử, 20g đại hoàng (đã ngâm rượu), 20g mang tiêu, 40g thạch cao, 40g hoàng cầm, 40g cát cánh, 80g cam thảo và 120g hoạt thạch. Tán nhỏ tất cả thành bột mịn. Mỗi lần uống 6-8g với nước gừng hoặc uống trực tiếp với nước nóng. Cũng có thể chế thành thuốc dạng thuốc sắc để uống.